Nấu xôi bằng Microwave

Mẹ tò mò và tìm đuợc 1 trang web tòan các món nấu bằng microwave mà bố Hilo sưu tầm

Tòan những món dễ làm, lại không mất thời gian nên mẹ định dần dần sẽ thử nghiệm.. Đây món đầu tiên mẹ thử làm, mẹ ghi lại cách làm ở đây nhé:

1. Nguyên liệu

-Gạo nếp: 300-330gr
-Nuớc: 160 ml
-Thịt heo (ba chỉ): 200gr
-Nuớc tuơng (maggie): 1 thìa to =15ml
-Nấm huơng khô: 4-5 cái (nếu không thì nấm tuơi cũng rất ngon)
-Tôm khô: 40 gr
-Hạt ginnan (tiếng Việt gọi là bạch quả, xem thêm ở đây : 50gr

Hỗn hợp gia vị A gồm:
-Nuớc tuơng: 2 thìa to (30ml)
-Ruợu nấu ăn: 2 thìa to (30 ml)
-Dầu mè (sesame oil): 1 thìa to
-Đuờng: 1 thìa cafe (5ml)

2. Cách nấu
-Gạo nếp vo qua, ngâm với 160ml nuớc trong vòng ít nhất 1 tiếng
-Thịt heo thái miếng vừa, ko mỏng quá, uớp với 1 thìa nuớc tuơng.
-Tôm khô và nấm huơng ngâm nở, nấm thái thành lát
-Trộn nấm huơng, thịt heo, tôm khô, hạt bạch quả (không có thay bằng lạc cũng ngon)vào nhau.
-Lấy 1 bát thủy tinh to hoặc bát gì chịu nhiệt cho gạo cùng với nuớc ngâm, và bát thịt, nấm..rồi cho gia vị A vào, trộn đều. Nếu thấy quá ít nuớc (trong truờng hợp gạo ngâm lâu nở ra nhiều) thì cho thêm ít nuớc nhưng chỉ xâm xấp mặt gạo. Bọc wrap hoặc đậy vung cho bát.
-Cho vào lò vi sóng, bấm chế độ range, 500W, để thời gian 12-15 phút. Hết thời gian, bỏ ra, trộn đều bát xôi, xem nếu gạo khô quá thì cho thêm ít nuớc, lại để vào lò vi sóng cùng chế độ (range, 500w) khỏang 5-8 phút nữa.
-Bỏ ra, trộn đều, xem thử hạt gạo đã nở đều và chín chưa. Tiếp tục đậy nắp (hoặc úp cái đĩa to), ở duới nắp là khăn để thấm nuớc, để như vậy trong vòng 10 phút cho xôi mềm và ngấm truớc khi ăn..

Ăn ngon lắm, béo ngậy của thịt mềm gần bằng thịt bánh chưng, bùi bùi của lạc, dai dai, giòn gìon của tôm và nấm..Khi nấu đã nghe mùi thơm nức, cách làm lại đơn giản, nhanh chóng và đủ dinh duỡng nữa. Buổi trưa nay mẹ ăn hết cả 1 đĩa vừa vừa, thế này làm sao mà giảm cân nhỉ??

Đây là link có món này và nhiều món khác nữa..

Xôi nấu bằng Microwave

Mẹ tò mò và tìm đuợc 1 trang web tòan các món nấu bằng microwave mà bố Hilo sưu tầm

Tòan những món dễ làm, lại không mất thời gian nên mẹ định dần dần sẽ thử nghiệm.. Đây món đầu tiên mẹ thử làm, mẹ ghi lại cách làm ở đây nhé:

1. Nguyên liệu

-Gạo nếp: 300-330gr
-Nuớc: 160 ml
-Thịt heo (ba chỉ): 200gr
-Nuớc tuơng (maggie): 1 thìa to =15ml
-Nấm huơng khô: 4-5 cái (nếu không thì nấm tuơi cũng rất ngon)
-Tôm khô: 40 gr
-Hạt ginnan (tiếng Việt gọi là bạch quả, xem thêm ở đây : 50gr

Hỗn hợp gia vị A gồm:
-Nuớc tuơng: 2 thìa to (30ml)
-Ruợu nấu ăn: 2 thìa to (30 ml)
-Dầu mè (sesame oil): 1 thìa to
-Đuờng: 1 thìa cafe (5ml)

2. Cách nấu
-Gạo nếp vo qua, ngâm với 160ml nuớc trong vòng ít nhất 1 tiếng
-Thịt heo thái miếng vừa, ko mỏng quá, uớp với 1 thìa nuớc tuơng.
-Tôm khô và nấm huơng ngâm nở, nấm thái thành lát
-Trộn nấm huơng, thịt heo, tôm khô, hạt bạch quả (không có thay bằng lạc cũng ngon)vào nhau.
-Lấy 1 bát thủy tinh to hoặc bát gì chịu nhiệt cho gạo cùng với nuớc ngâm, và bát thịt, nấm..rồi cho gia vị A vào, trộn đều. Nếu thấy quá ít nuớc (trong truờng hợp gạo ngâm lâu nở ra nhiều) thì cho thêm ít nuớc nhưng chỉ xâm xấp mặt gạo. Bọc wrap hoặc đậy vung cho bát.
-Cho vào lò vi sóng, bấm chế độ range, 500W, để thời gian 12-15 phút. Hết thời gian, bỏ ra, trộn đều bát xôi, xem nếu gạo khô quá thì cho thêm ít nuớc, lại để vào lò vi sóng cùng chế độ (range, 500w) khỏang 5-8 phút nữa.
-Bỏ ra, trộn đều, xem thử hạt gạo đã nở đều và chín chưa. Tiếp tục đậy nắp (hoặc úp cái đĩa to), ở duới nắp là khăn để thấm nuớc, để như vậy trong vòng 10 phút cho xôi mềm và ngấm truớc khi ăn..

Ăn ngon lắm, béo ngậy của thịt mềm gần bằng thịt bánh chưng, bùi bùi của lạc, dai dai, giòn gìon của tôm và nấm..Khi nấu đã nghe mùi thơm nức, cách làm lại đơn giản, nhanh chóng và đủ dinh duỡng nữa. Buổi trưa nay mẹ ăn hết cả 1 đĩa vừa vừa, thế này làm sao mà giảm cân nhỉ??

Đây là link có món này và nhiều món khác nữa..

Các toa rượu thuốc Việt nam

Bút khảo của Lê văn Lân

Những toa RƯỢU THUỐC

ngâm từ những rắn, hà nàm, cắc kè đến Ngự tửu Minh Mạng thang

 

 


BS Lê Văn Lân

E-Mail: bslevanlan@khoahoc.net

7 tháng 4 năm 2005

 


 

 

Sau hơn 20 năm xa xứ, tôi mới về lại Việt Nam. Một điều đập vào mắt tôi là những quầy hàng bán đầy những thẫu lớn rượu thuốc ngâm tại những góc phố . Những thẫu ruợu tam xà tửu, ngũ xà tửu với những con rắn nằm gọn tròn trong thẫu làm tôi có một cảm giác ghê rợn.

Dân Việt nam phần lớn cần gạo ăn để no bụng hơn là cần rượu thuốc để nhâm nhi.  Nhưng biết đâu rượu thuốc cũng cần thiết cho sức khỏe của người dân khi  phải cần cù lao động để kiếm miếng ăn nhất là thuốc ngoại rất mắc tiền. Lao động nhiều thì thường gây ra chuyện đau lưng và mệt mỏi, rượu thuốc cần là do vậy chăng! Hay là hoặc giả, hơi men làm cho người dân quên thực tại đắng cay như nạn nghiện rượu rất trầm trọng tại nước Nga và các xứ Đông Âu thời Cọng sản.

Tuy nhiên, ô kìa, tôi lại thấy bán  rất nhiều chai rượu thuốc dán nhãn là Ngự Tửu ở các gian hàng quốc doanh hay ở các phi trường. Ruợu này quảng cáo là dựa vào những bài thuốc gọi là “Minh Mạng thang”, nổi tiếng thần sầu là “ Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”.  Không lý gì người dân cả ngày lao động, mỏi cả sống lưng nhức cả vai thế mà mỗi đêm ngũ lục giao có mà chầu ông bà sớm. Tôi đành kết luận rượu thuốc Minh Mạng chính là dành cho những cán bộ, no cơm ấm cật, dậm dật vui say!

Nhìn lại quá khứ, tôi thấy uống rượu thuốc là một trong những truyền thống  ẩm thực của dân ta.  Nghèo như Uy viễn tướng công Nguyễn công Trứ lúc còn hàn nho, anh hùng vị ngộ thế mà ngày Tết ngoài vài chiếc bánh chưng lèo tèo, cũng không bỏ qua món rượu thuốc:

Tết nhất năm ni ai nói nghèo,

Nghèo mà lịch sự đố ai theo

Bánh chưng chất chật chừng ba chiếc,

Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu!

 

Giọng thơ khoa trương nào là “chất chật” và “ngâm đầy”, nhưng thực tế chỉ là “ba” chiếc bánh và “nửa” siêu rượu! Nhưng thôi bỏ qua cái giọng ăn nói cảnh vẻ của kẻ hàn nho, tôi xin mời quí độc giả đi vào thiên bút khảo này để tìm hiểu sâu xa về chuyện uống rượu thuốc.

 

Ruợu là một thứ thuốc lâu đời nhất của nhân loại. Hãy chiết tự chữ Y là người thầy thuốc trong chữ Nho, ta thấy đó là một người phù thủy dùng cung tên, giáo mác bắn ma quỉ và đặc biệt dùng rượu là chính nên ta thấy chữ Tửu nằm dưới chữ Y. Trong bài bút khảo này, tôi xin lần lượt  đi từ truyền thống ngâm ruợu thuốc của Việt Nam, rồi duyệt qua những món rượu thuốc phổ thông nào dân ta quen uống, cùng là tra cứu biên khảo về những toa thuốc ruợu cao cấp hơn để tẩm bổ, hay để  trị những chứng  bịnh nội tạng như yếu thận, liệt sinh lý .( Những toa rượu thuốc  để trị sống trường thọ của các đạo sĩ và trị sự trật đả trong nghề võ như môn phái Thiều lâm sẽ trình bày kỳ tới.)

 

Truyền thống ngâm rượu thuốc của dân Việt

Dân Việt ta biết uống rượu từ thời thượng cổ, chẳng phải là học của Trung Hoa như sách Lĩnh Nam chích quái chép: “ Hồi quốc sơ, dân ta lấy vỏ cây làm áo… dùng gạo Tri làm rượu…” Chữ nôm “rượu” và chữ Hán “tửu”, nghe âm rất tương cận như ảnh hưởng nhau nhưng chưa biết chữ nào có trước đấy! Dân thiểu số Trường sơn ngày nay vẫn lấy một loại rễ cây giã ra làm diếu tố lên men cho rượu cần. Cứ như sử sách như An Nam chí lược, Văn Hiến thông khảo, rượu được dùng trong cung vua khi tiệc yến như chuyện Cù thái hậu bầy tiệc ruợu để ám hại tướng Lữ Gia, hay chuyện vua Lê Hoàn và vua Trần Anh Tông ghiền ruợu.

Theo cuốn Việt Nam phong tục mà Phan Kế Bính viết vào đầu thế kỷ 20: “Rượu thì nấu toàn bằng gạo nếp, ủ men rồi cất ra. Trong thứ rượu ấy hoặc ướp thêm hoa sen, hoa cúc, hoa hồng, hoa cau, hoặc hoa nhài v.v.. gọi là ruợu hoa; hoặc tẩm với các vị thuốc bắc gọi ra rượu thuốc.  Rượu hoa quí nhất là rượu sen, rượu cúc, mà rượu thuốc quí nhất là rượu sâm nhung.” ( tr. 353)

Về rượu hoa, tôi nghĩ chỉ riêng rượu hoa cau là có vẻ đặc thù Việt Nam, vì các thứ hoa khác thì Ta với Tầu đều có. Còn hoa cau thì chỉ Việt Nam mới có sẵn và có nhiều vì tục ăn trầu cau của ta; trồng cau cốt lấy trái ăn, ít ai dám hy sinh lấy hoa cau mà cất rượu, nên rượu hoa cau trở nên quí ( cũng như trong Nam, ăn đuông dừa thì chỉ có dân giàu chịu chơi mới dám ăn vì phải đốn nguyên cây mà chặt lấy cái  tù hũ dừa!). Theo Lê Quí Đôn, Việt Nam là xứ sản xuất nhiều cây thuốc nên Trung Hoa thường phải mua của ta. Nếu Trung Hoa mua dược thảo sống  về bào chế ra thuốc chín hay thuốc Bắc, thì Việt Nam dùng dược thảo dưới dạng tươi hoặc phơi sấy gọi là thuốc Nam. Người mình đương nhiên cũng có truyền thống ngâm rượu về các thổ sản tùy theo vùng như rượu mơ, rượu mít, rượu vỏ cam… Còn ngâm những toa thuốc hay ngâm những thú vật, chim chóc hay rắn rít thì nguồn gốc theo tôi quả là đã theo ảnh hưởng của Y dược Trung Quốc. Tôi thấy thông thường người ta ngâm rượu thuốc với sâm nhung, các thứ cao ( như hổ cốt, ban long…)…

 

Tục  ăn rắn và uống rượu rắn:

Ở Việt Nam, tục uống rượu với máu rắn  xảy ra thường ở miền Nam vì rắn miền Bắc hiếm hơn. Sách Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng từng làm tri phủ ở Tân Bình ( Gia định) đời Minh Mạng chép rằng: “Tục Nam kỳ lấy rắn hổ mang làm món ăn quí, thường dùng đi lễ quan trên và đãi khách. Lấy máu nó hòa với ruợu uống bảo là trị phong thấp”

[ Chú thích thêm: Trong khi dân Bắc kỳ thường chỉ biết ăn rắn do các chú nấu ở tiệm cao lâu qua món Long Hổ hội( nấu một con rắn cạp nong đen , một con mèo đen tuyền cùng với chân giò heo thêm vài vị thuốc bắc thì  đọc cuốn hồi ký trên, ta mới thấy dân Nam rất độc đáo ly kỳ hơn trong sự làm rắn  hay tự nuôi lấy rắn “ống tre” để ăn như sau: “ Bỏ đầu và đuôi năm tấc ( 20 phân) cho là độc ở đấy. Có nhà  nuôi rắn ấy dùng ống tre vài lóng, một đầu để mắt, đầu kia để trống bỏ rắn vào, bịt lại . Đằng mắt tre xuyên một lỗ nhỏ, giã hành thun tẩm que tre để vào lỗ. Rắn sợ hành co mình lại, một tuần sau thay que tre cũng tẩm hành mà đẩy vào thêm, rắn càng co mãi, lâu dần ngắn bằng con chạch, vẩy trắng ra, rất béo ngon” ( trích Đất lề quê thói của Nhất Thanh) ]

Hiện nay, coi cuốn video Thú ăn chơi miền Nam, chúng ta thấy đoạn phim mổ lấy mật rắn hòa rượu như quán Tri Kỷ hay làm trước đây.

Cách thức ngâm rượu những loại rắn thì tôi đã thấy ở vùng Hoa Nam và ở Hongkong, như tôi đã thấy những thẫu rượu rắn ở Quế Lâm. Miền Hoa Bắc vì khí hậu lạnh nên không có nhiều rắn để người ta ăn thịt, mổ lấy mật hòa rượu uống ngay hay ngâm rượu. Trung Quốc Trà Tửu Từ điển ( TQTTTĐ) có kê ra Ô Xà tửu và Xà Đảm tửu (dùng mật của 3 thứ rắn Nhãn kính xà,  Kim Hoàn xà, Ngân Hoàn xà, nói là công hiệu khu phong, khử thấp, minh mục, ích can, cường cân tráng cốt.)

Tại sao rắn độc lại dùng làm thuốc? Theo Bản thảo cương mục, rắn thuộc hướng đông nam  nên ứng vào phong, tác dụng vào can và thận. Do đó, ăn rắn và uống rượu rắn dân Á Đông tin là trị phong thấp, đau xương và rút gân. Mật rắn quí vì  thuộc về hành Mộc, khí Phong, ứng với tạng Can phủ Đảm, nên bao nhiêu tinh chất của rắn cô đọng trong túi mật. Đó là luận thuyết theo Y lý khí hóa của Đông phương; trong con mắt của người bình dân ít học thì sự lý luận bắt nguồn vào sự quan sát thực tại gọi là Théorie des Signatures – Thuyết Thự danh- nghĩa là bản chất sự vật thế nào thì hình hài của nó hiện ra thế ấy như chữ ký vậy: rắn bò sở dĩ thoăn thoắt uyển chuyển chính là nhờ khớp xương lưng nó mềm mại, và dẻo dai. Hiện nay, người ta đã thực nghiệm chế những thuốc trị đau khớp với thuốc Chondroitin và Glucosamine lấy từ sụn xương lưng của cá mập, cá nhám  ( Kình ngư). Vi cá được coi là trân phẩm quí giá trong các món súp , món nhồi bồ câu và nhân bánh Trung thu vì sự tin tưởng trên.

 

Rượu ngâm hà nàm và tử hà xa:

Chuyện lấy hà nàm (bào thai) loài thú không phải là chuyện lạ ở miền, nhất là những vùng săn bắn hay bẫy được thịt rừng.  Hà nàm thông thường là hà nàm nai.  Người ta ác khẩu đồn rằng các cán bộ cao cấp thích  tẩm bổ bằng “ hà nàm người”. Điều này thì tôi có nghe nhưng không  rõ, chứ những lá nhau người ( sách thuốc gọi là “tử hà xa” vì hình tròn như lá sen) thì với tư cách là một bác sĩ sản phụ khoa, tôi xác nhận là có. Mỗi phiên trực nhà thương ở Bệnh viện Quảng đông vào hai năm 1978 – 1980, tôi được thủ trưởng Nam giao cho những lon Guigoz và dặn lấy những lá nhau con so tốt cất cho anh ấy để ngâm rượu và để “hữu nghị” với những cửa hàng ăn uống mà đổi lấy đường, bột ngọt và thịt cá. Lá nhau chứa kích thích tố Chrionic Gonadotrophin nên có một dạo dân ta có phong trào uống xia rô nhau và cấy nhau theo phương pháp Filatov của Nga. Trong thời gian tôi làm bác sĩ khoa sản, tôi được biết nhà thương Quảng Đông phân loại nhau người  như sau: loại A là nhau con so, loại B là nhau con thứ 2 mà mẹ khỏe mạnh, nhau lấy ra trọn vẹn ( hai loại A và B được đem chế xia rô), còn loại C là nhau con rạ thì đem làm thực phẩm nuôi heo. Chuyện lấy những thai nhi chết để nuôi heo thì không có như tin đồn.

 

Dùng hà nàm thú vật làm thuốc có công hiệu không? Trước đây ở Liên xô, người ta nói rằng bác sĩ Bogomoletz đã dùng hà nàm người để làm thuốc cho chủ tịch Staline. Hư thực thế nào tôi không rõ, chứ điều sau thì tôi xác nhận là có thực: ở bệnh viện Quảng Đông thì máu của các sản phụ khi người ta sổ nhau được hứng rồi giao cho những ao cá bác Hồ để nuôi cá làm cá sanh đẻ nhiều, điều này cũng lô- gíc vì máu này chứa nhiều chất : ngoài kích thích tố chorionic gonado trophin., máu đẻ còn chứa những chất hữu cơ như hồng huyết tố, chất sắt v.v… Thành ra ruợu hà nàm thú vật trên nguyên tắc là một thứ ruợu bổ, nhưng không ai dám nói những hàm chất tươi sống của nó có bị tiêu hủy vì  ngâm rượu không? Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển, rượu ngâm hà nàm nai gọi là Lộc thai tửu.

Về bộ phận sinh dục của thú vật, dân nhậu miền Nam còn  có rượu ngâm  hòn dái dê ( Ngọc dương tửu)! Ngoài ra, tiệm thuốc bắc bán rất đắt món Hải cẩu thận ( gồm dương vật và ngọc hoàn của hải cẩu _ Callorhinus ursinus) trị chứng hư lao, liệt sinh lý, yếu bại lưng gối. Món Đông trùng hạ thảo ( Cordyceps) cũng là một dược liệu quí trị liệt dương, di tinh , đau lưng gối bán rất mắc

 

Rượu ngâm bìm bịp:

Dân Nam coi rượu bìm bịp là một rượu quí vì trị nhức mỏi và cứng gân cốt.  Theo cây bút đồng quê miền Nam  Lê Bảo Trân  cho biết, chim bìm bịp ( Centropus sinensis thuộc gia đình Cuckoos) thường làm tổ trên những cây bần hay bụi dừa nước, lông màu xanh, đầu mầu đà,  ăn cá, mỗi khi nước lớn thường kêu  như câu ca dao:

Bìm bịp quê nước lớn anh ơi,

Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.

Dân quê thường hay mò vô tổ của bìm bịp, bẻ gẫy chân những bìm bịp non xong  rồi rình cho mẹ chúng tha  những cây thuốc về trị bệnh để bắt chim non  về ngâm rượu vì người ta tin tưởng rằng trong bọc chứa của chúng còn chứa những cây thuốc có đặc tính tiếp cốt thần kỳ vừa được bìm bịp mẹ mớm cho.

 

Ruợu ngâm bao tử nhím:

Nhím là loài hay bới đào để ăn rễ những cây thuốc  mọc sâu  dưới đất, nên dân miền Nam cũng bắt nhím mổ lấy bao tử ngâm rượu cho rằng rất tốt. Con nhím chữ Nho là Hào trư ( nhím chồn) và  Thích vị ( nhím chuột), nhưng tôi tra cứu trong Tuệ tĩnh toàn tập của thiền sư Nguyễn Bá Tĩnh ( Viện Y Dược học dân tộc – TP/HCM) thì không thấy nói đến dùng bao tử nhím mà chỉ nói thịt của nhím chồn tiêu cổ trướng ( bụng báng nước), trị nhiệt phong ; còn da nhím chuột ( nhím gai)giết được trùng bệnh  trĩ, đau lưng, đau bụng (nguyên nhân?) chứng bôn đồn (?). Sách thuốc Tầu không thấy nói về rượu ngâm bìm bịp và bao tử nhím như Việt Nam.

 

Rượu ngâm chuột xạ con

Theo Lê Bảo Trân, miền Nam có người ngâm chuột xạ con mà không nói trị bệnh gì. Tôi chú ý rằng cuốn Từ điển về trà rượu của Tầu  ( TQTTTĐ) dẫn trên  không thấy nói đến ruợu bìm bịp, bao tử nhím … có lẽ là đặc thù của dân miền Nam Việt . Phải chăng  đất Tầu không có sẵn những thú cầm điểu này. Về loại rắn, rít thì bên Trung quốc, miền Hoa Bắc lạnh lẽo hoặc rất hiếm hay không có, còn vùng Giang Nam – cái nôi phát sinh giống Bách Việt – nhất là Quảng Đông, Quảng Tây với khí hậu loại bán-nhiệt-đới thì lại tương đối sẵn những thú vật như ta nên họ mới có chuyện ăn rắn, chó và chuột như ta thấy qua những sách và phim ảnh Trung Quốc. Về chuột, có món Trúc Thử ( chuột ăn rễ bụi tre). Còn rượu thuốc vùng Hoa Nam thì ê hề rượu rắn, rượu tắc-kè, rượu cà cuống ( Long sất tửu – rượu rận rồng!)…

 

Ruợu ngâm Nhung

Thông thường phối hợp với Sâm. Sâm đây là Nhân sâm mà xứ ta không có nhưng mua tại tiệm thuốc bắc.

Còn Nhung là cái gạc non mọc ra khi cái gạc già rụng đi. Theo Đỗ Phong Thuần trong cuốn Việt Nam dược vật thực dụng, người ta phân biệt Nhung theo thời điểm mọc sau: Nếu mọc vào tiết Hạ chí nghĩa là Nhứt âm sinh thì gọi là Mê Nhung nên bổ phần âm huyết; còn mọc vào tiết Đông chí nghĩa là Nhứt dương sinh thì gọi là Lộc Nhung nên bổ phần Dương khí. Điều phân biệt trên thuộc lãnh vực quá chuyên môn, người thường không ai nói được. Đại khái,  Mê Nhung lớn hơn Lộc Nhung, sắc đen xám hay vàng mơ Còn về phẩm chất, thường tùy theo xuất xứ: gạt vùng Chợ Bờ ( Bắc phần) tốt 10, vùng Thanh hóa tốt 8, vùng Lào thì xấu, vùng Đà lạt vừa dùng.  Ở Tàu bán ra phần lớn mua từ Thái Lan cũng không được tốt. Nói chung, Nhung về trị liệu thì tư âm bổ thận, chữa bệnh âm hư lao tổn và những chứng thuộc phần huyết hoặc gân xương lưng gối đau nhức. Ruợu Lộc Nhung của Tàu ( kén chọn hươu ở Liễu Ninh hay Cát lâm) thường ngâm thêm gân hươu, các vị thuốc bắc như bắc kỳ, thục địa và nhiều vị khác. Phân chất Lộc Nhung thấy những thành phần sau: Steroids, Cholesterol; về chất béo lipids có proteolipids, ganglioside, sphingomyeline; và muối khoáng thì có Calcium phosphate, Calcium carbonate.

 

Rượu Hổ cốt

Theo Đỗ Phong Thuần thì về cách chế, lấy một bộ xương ống chân hổ sao vàng, giã nhỏ rắc men ủ thành rượu; hoặc cho vào trong cái bao bằng vải rồi dầm rượu. Công dụng: Hổ cốt tửu chữa đau trong ống chân, nhức các khơp xương và chữa thận, bàng quang lạnh. Theo Kinh nghiệm phương, toa Hổ cốt Mộc qua tửu rất thông dụng. Phân chất Hổ cốt thì thấy nhiều Kalium carbonate hay muối bồ-tạt. Trung Quốc trà tửu từ điển nói rằng bào chế Hổ cốt tửu Bắc kinh ( chắc là rượu ngự dụng), ngoài xương ống chân cọp ( hĩnh cốt) là chính, còn ngâm thêm  đủ thứ như  nhân sâm, lộc nhung, xạ hương, hồng hoa, mộc qua, nguyên hoạt, ngưu tất… cọng cả thẩy 147 vị thuốc bắc.

 

Rượu ngâm rùa

Rùa sống lâu đến 500 năm. dù nhịn đói hai ba tháng  cũng không chết. Chế Qui nhục tửu bằng cách lấy thịt rùa hòa lẫn với men, rồi ủ cho thành rượu. Ruợu này chữa chứng ho lâu năm, chứng phong co quắp tay chân hay bại xuội. Mu rùa là Qui bản trị các chứng xích đái, bạch đái, thấp nhiệt lở ở hạ bộ, chứng trĩ và thóp trẻ con không liền được ( Đỗ Phong Thuần). Phân chất mu rùa thấy nhiều muối Calcium. Ngoài ra, sách Tầu có nói về Qui giao tửu đã dùng mu rùa đen ở Động dình hồ nấu thành cao, rồi ngâm rượu với câu kỷ, kim anh tử, đảng sâm,  đương qui ; có tác dụng tư âm, bổ thận, cường thân tráng thể . Qui Lộc tửu rất quí lại dùng mu rùa (qui bản), nhung hươu và 10 vị thuốc khác mà chế ra. 

 

Rượu cắc-kè:

Tiếng Nam phân biệt cắc-kè (hay tắc-kè) với cắc-ké: Theo Việt Nam tự điển của Lê văn Đức & Lê ngọc Trụ, cắc kè là loài bò sát dài độ 20 cm, bụng to đuôi ngắn, sống trong kẹt hóc, không ưa ánh sáng, thường kêu ban đêm ( có những loại cắc kè bông, cắc kè lửa) Danh từ Cắc kè đôi là lời biếm nhẽ một cặp trai gái đang tình tự. Còn  cắc-ké là loài bò sát mình ba góc thon dài, gáy có gai, đuôi dài, mình màu xanh, tím vàng đỏ tùy theo chỗ người đứng trông, sống trên cây cối, ăn sau bọ, đẻ trứng thật nhiều dưới đất sau. ( Cắc-ké lục chốt chỉ hạng thấp thỏi chầu rìa).

Cắc- kè có tên chữ nho là cáp- giới đọc theo âm Tàu là Ke-Chieh ( cơ chia), kỳ thực là tiếng kêu khi chúng muốn bắt cặp, con đực kêu cắc, con cái đáp kè. Sách thuốc Tầu nói cắc kè rất nhiều ở Quảng đông và Quảng tây.  Hiệu lực làm thuốc của cắc kè  là phải có đủ nguyên cái đuôi; khi người ta rình bắt nó , nó cắn đuôi bỏ chạy. Khi cắc kè đực cái bắt cặp thì chúng ôm nhau sát, rồi cùng té xuống đất mê man không còn biết trời trăng, khó mà gỡ ra được. Do đó, người ta mới bắt cả cặp bỏ vô rượu, hấp rồi phơi khô để bán là thuốc khích  dâm cường dương. Cắc kè vị mặn, tính bình, hơi độc, công dụng khai phế khí, chữ hen suyễn, ho lao, lợi thủy thông kinh, chữa què gẫy.  Mắt nó độc, nhưng đuôi lành.. Khi dùng bỏ mắt và kỳ trên sống lưng, tẩm rượu nướng khô mới dùng. Con nào đứt đuôi thì dược lực kém không nên dùng.

Theo sách Trung quốc Trà Tửu từ điển (TQTTTĐ ), Cáp giới tửu đủ 2 con đực cái dính cặp mới thiệt tốt, người ta: dùng cắc kè còn tươi sống phối hợp với lộc nhung, đảng sâm, câu kỷ tử , viên nhục, huỳnh tinh, hoài sơn, hắc táo, tỏa dương, đương qui, bắc kì, nhục thung dung, xuyên khung… cùng vài thứ linh tinh khác ngâm trong rượu gạo thứ thiệt. Hương vị rượu rất thuần hòa, hiệu lực nuôi âm, bổ thận, bổ huyết dưỡng nhan ( bổ máu và làm tăng sắc đẹp ở phụ nữ)

 

Ngự tửu Minh Mạng thang

Rượu này trở thành một đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch và kinh tế thị trường để góp nhặt ngoại tệ. Cái gì thuộc về vua chúa nhà Nguyễn trước bị chửi là phong kiến, áp bức thì nay được xưng tụng là di sản văn hóa, trong đó có toa thuốc của Vua Minh Mạng. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế,  được đồn là do vài vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của Lương Y Tuệ Tâm:

 

I – Nhất dạ ngũ giao

Thành phần:

1- Nhục thung dung                 12g                                                                                         

2- Táo nhân                             8g                               

3- Xuyên Qui                          20g                             

4- Cốt toái bổ                         8g                               

5- Cam cúc hoa                       12 g                              

6- Xuyên ngưu tất                    8g                               

7- Nhị Hồng sâm                     20g                             

8- Chích kỳ                             8g                                             

9- Sanh địa                              12g                             

10 -Thạch hộc                         12g                             

11- Xuyên khung                     12g

12- Xuyêntục đoạn                 8g        

13- Xuyên Đỗ trọng                 8g

14- Quảng bì                           8g 

15- Cam Kỷ tử                       20g

16- Đảng sâm                          10g 

17- Thục địa                            20g

18 – Đan sâm                           12 g

19- Đại táo                              10 quả

20- Đường phèn                      300 g

(Toa này có người nói là „Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử“ nghĩa là có một lần làm thụ thai… song sinh!!)

Cách ngâm:  Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục.

 

II- Nhất dạ lục giao

Thành phần:

1-Thục địa                    40g                            

2- Đào nhân                 20g                            

3-Sa sâm                      20g                            

4- Bạch truật               12g                            

5 Vân qui                     12g                            

6- Phòng phong           12g                             

7- Bạch thược             12g                             

8- Trần bì                     12g                            

9-Xuyên khung            12g                             

10- Cam thảo              12g                            

11- Thục linh               12g                

12- Nhục thung dung   12g                                             

13- Tần giao                  8g 

14-Tục đoạn                  8g

15- Mộc qua                  8g 

16- Kỷ tử                       20g 

17-Thường truật           8g

18-Độc hoạt                  8g

19- Đỗ trọng                  8g

20- Đại hồi                     4g

21- Nhục quế                4g

22- Cát tâm sâm           20g

23- Cúc hoa                   12g

24- Đại táo                    10 quả

Cách ngâm: 24 vị  thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày.  Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau dùng tiếp.

Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ.

           

Vài nhận xét của người viết

Tôi mạn phép  có vài nhận xét sau: 

a-  Trong hai bài thuốc, về cân lượng người ta dùng đơn vị Gramme (g). Ngày xưa ở Trung quốc dùng cân (chin), lượng ( liang), phân (fen).  Nhưng ngay bây giờ, ở Trung quốc, người ta dùng những hệ thống khác nhau về cân lượng  như 16 lượng, 12 lượng, 10 lượng; thậm chí ở các vùng quê hẻo lánh, người dân dùng hệ thống. 18 lượng, 20 lượng và 24 lượng. Những ấn định về đo lường trong nhiều triều đại đã làm cho vấn đề cực kỳ phức tạp. Kể từ năm 1979, miền Hoa lục đã chuyển theo hệ thống thập phân (metric system) thay vì là hệ thống cân lượng, nên trong nhiều sách thuốc in tại Hoa Lục , hệ thống trọng lượng được thống nhất như sau, để dễ bề tính toán::

1 lượng = 30 g ( hiện nay chính xác hơn là 31 .25 g)

1 tiền   =    3g

1 phân =  0.3g

Vậy về phân lượng trong  2 toa thuốc Minh Mạng thang trên, ta không rõ lương y Việt Nam  đã dựa vào toa nguyên gốc mà đổi ra gờ ram hay phỏng chừng đổi theo cách thực dụng mới cho tiện việc cân khi mua thuốc. 

b- Trong toa Nhất dạ ngũ giao, những vị thuốc bắt buộc  phải kén chọn theo nguồn gốc sản xuất, vì các tên thuốc có kèm tên vùng thổ sản như Tứ Xuyên, Cam túc, vùng Lưỡng Quảng, ví dụ chẳng hạn như phải đòi hỏi thuốc từ Tứ Xuyên như Đương Qui, Ngưu Tất, Tục đoạn, Đỗ trọng, Xuyên khung. Trong khi trong toa Nhất nhật lục giao, thì chỉ có Vân Qui và Xuyên Khung là gốc Vân Nam và Tứ Xuyên, còn những vị Tục đoạn, Đỗ trọng, Kỷ tử thì không nói rõ từ ở đâu

c- Điều này rất quan trọng là phân lượng những thành phần kê ra trong một toa thuốc Bắc phải dựa trên tình trạng của mỗi bệnh nhân như thể chất yếu hay khỏe, bịnh trạng nặng hay nhẹ, bệnh tình mới hay lâu. Thành ra hai bài thuốc kê trên không phải là loại “one size fits all”.

Do đó, với tư cách người biên khảo vô tư nhưng rất thận trọng về ý thức trách nhiệm, tôi khuyến cáo bạn đọc không thể đơn phương quyết định áp dụng sự tự điều trị cho cá nhân mình mà không tham khảo những vị lương y có thẩm quyền chuyên nghiệp, nhất là những nữ bệnh nhân mang thai, hay những người có chứng huyết áp cao hay những rối loạn bệnh lý hiểm nghèo khác. Một vị thuốc tuy có vẻ hiền lành nào cũng có thể có những phó tác- dụng bất ngờ nhất là thuốc Bắc chưa được kiểm nghiệm như thuốc hiện đại trước khi bán ở thị trường.

d – Một điều thứ hai tôi muốn nêu ra về công hiệu của những ngự tửu. Trường hợp của Minh Mạng thang với những tên “Nhất dạ ngũ giao” hay “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” có tính cách khoa trương huyền thoại  chăng?

 

Ta hãy thử duyệt lại số con cái của vua chúa  nhà Nguyễn

Chín đời chúa là:

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng ( 1525 – 1613) có 12 con: 10 trai và 2 gái

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1563- 1635) có 15 con: 11 trai và 4 gái

Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan ( 1601 – 1648) có 4 con: 3 trai và 1 gái

Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần ( 1620 – 1687) có 9 con: 6 trai và 3 gái.

Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái ( 1650 – 1691) có 10 con: 5 trai và 5 gái

Chúa Minh vương (Quốc chúa)û Nguyễn Phúc Chu* ( 1675 – 1725) có 42 con: 38 trai và 4 gái

Chúa Ninh vương Nguyễn Phúc Thụ ( 1697 – 1738) có 9 con: 3 trai và 6 gái

Chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ( 1714 – 1765) có 30 con: 18 trai và 12 gái

Chúa  Định vương Nguyễn Phúc Thuần ( 1753 – 1777) có một gái

 

* Chúa Minh vương (Quốc chúa ), theo nhiều sử sách  có đến 146 con! Nhưng theo Richard Orband trong Les tombeaux des Nguyễn( 1914)  và Nguyễn Phúc tộc thế phả ( 1995) thì ghi là 42 con

 

Mười ba đời vua là:

Gia long ( 1762 – 1819) có 31 con :13 trai và 18 gái

Minh Mạng (1791 – 1840) có 142 con: 78 trai và 64 gái

Thiệu trị ( 1807 – 1847) có 64 con: 29 trai và 35gái

Tự Đức ( 1829 – 1883) không có con tuy nhiều vợ

Dục Đức ( 1853- 1883) có 19 con: 11 trai và 8 con gái  chết vì bị giam đói

Hiệp Hòa ( 1847 – 1883) có 17 con: 11 trai và 6 gái chết vì  bị ép uống thuốc độc

Kiến Phúc ( 1869 – 1884) chưa có vợ con , chết bí mật

Hàm Nghi ( 1871- 1943) một vợ, có 3 con: 1 trai và 2 gái

Đồng Khánh ( 1864 – 1889) có 5 vợ, 10 con: 6 trai và 4 gái

Thành Thái ( 1878 – 1954) nhiều vợ, có 45 con: 19 trai và 26 gái**

Duy Tân ( 1900 – 1945) có 2 đời vợ , có  3 trai và 2 gái

Khải Định ( 1885 – 1925) có 1 trai

Bảo Đại (1913 – 1997) có 5 con: 2 trai và 3 gái

 

[** Riêng Vua Thành Thái là một người phát dục rất sớm. Số con của ông còn rơi rớt rất nhiều mà thế phả nhà Nguyễn chưa kiểm tra được. Cung tần chưa đủ cho ngài gần gũi mà còn muốn vi hành ra ngoài nên mới có câu:

Kim luông con gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ trẫm liều, trẫm đi!]

Duyệt qua danh sách trên, ta thấy có hai đỉnh cao về con số đông con:

_  Đỉnh cao thứ nhất trong đời các chúa với Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu và Võ vương Nguyễn Phúc Khoát ứng vào giai đoạn mà Chúa Nguyễn ở Nam hà tuyên bố xác định vương quyền độc lập chống  lại vua Lê chúa Trịnh Bắc hà bằng sự dùng vương ấn và lập sẵn kinh đô ở Thuận Hóa.

_  Đỉnh cao thứ hai trong đời các vua với vua Minh Mạng ứng với giai đoạn tuyên xưng đế quyền tuyệt đối với sự ban bố bài Đế Hệ thi 20 chữ trong tham vọng con cháu của ông sẽ làm vua trong 20 đời nữa.

Chính ý niệm  xác định Vương quyền và Đế quyền phải chăng tạo ra nhu cầu sinh sản nhiều tử tức hậu duệ. Và “bộ máy đẻ” của nhà Nguyễn là hệ thống cung tần mỹ nữ. Đời Võ vương, vợ lớn nhỏ của chúa không gọi là Chánh hay Thứ phu nhân như bá tính mà đổi ra gọi vợ cả là Tả hành lang và vợ thứ là Hữu hành lang, con cái đẻ ra sợ chuyện ma quỉ bắt  ( nạn hữu sanh vô dưỡng ) nên Chúa mới đặt ra tục gọi các con trai là Mệ, Mụ.  Trong cung cấm nhà Nguyễn,  có chín bậc gọi các bà vợ vua từ cao đến thấp gọi là Cửu giai. Vua nhà Nguyễn không phong vợ lớn là Hoàng Hậu (trừ vua Bảo Đại sau này) vì sợ nạn quốc thích chuyên quyền như các triều Lý, Trần , tước hiệu Hoàng Hậu chỉ phong sau khi chết.

 Cửu giai là:

Nhất giai Phi

Nhị giai Phi

Tam giai Tân

Tứ giai Tân

Ngũ giai Tiếp Dư

Lục giai Tiếp Dư

Thấp giai Quý Nhân

Bát giai Mỹ Nhân

Cửu giai Tài Nhân

và cuối cùng là Tài Nhân vị nhập giai ( nghĩa  là chưa vô ngạch mà chuẩn bị thôi, như chức Chuẩn Úy của quân đội) Trong thế phả Nguyễn Phúc tộc, tôi thấy một bà Cung Nga có lẽ là cung nữ chưa vô ngạch Cửu giai!

            Chính vì hệ thống phi tần mỹ nữ đã là cho những ông ngự y phải tìm những thang thuốc bổ thận cho vua chúa và những toa thuốc dưỡng thai cho các vợ vua khi mang bầu, như thế làm gì không đông con. Thức ăn ngự thiện đương nhiên gồm những thứ bổ béo mà bá tính cung tiến .Vua Minh Mạng chỉ sống đến 50 tuổi vì nghe đâu chết vì té ngựa, thế mà đã có 142 con, nếu vua thọ thêm 20 năm nữa, con cái trực hệ còn đông đến đâu. Hệ của Minh Mạng là hệ nhì chánh ( hệ nhứt chánh là hệ hoàng tử Cảnh), là hệ đông nhất gồm 56 phòng và phái nam đươc 1800 người.

 Theo tôi những cái tên Nhất dạ Ngũ giao hay Lục giao của Minh Mạng thang là những cái tên đời sau bịa ra cho thần kỳ, chứ mỗi khi một cung phi nào được vua vời tới long sàng thì tên tuổi và ngày tháng ấy đều được ghi chép cẩn thận để sau này còn chẩn đoán thai kỳ và xác nhận phụ hệ. Những chuyện về:

Cái đêm hôm ấy đêm gì.

Bóng dương trùng bóng trà mi chập chùng

là chuyện thâm cung bí sử, ai mà rõ “ ngũ giao” hay “ lục giao”. Trong  đống văn khố chứa trong Tàng thơ lâu , giả thử còn lưu lại những y án hay phương dược của các ngự y dâng lên vua,  đâu là tài liệu xác nhận rằng vào một đêm nào đó có 5 bà phi trong bụng tiếp nhận “ long chủng” qua lần ân ái với vua và tên những hoàng nam hay hoàng nữ đó là ai?

Dựa vào kiến thức y học, câu chuyện “lục giao sanh ngũ tử “ có lẽ là ngoa ngôn hay phóng đại. Chỉ ở trong thần thoại Hy lạp, mới có thần Hercule trong một đêm gần … 50 cô gái đã làm thụ thai 49 cô. Dẫu sao, xét về số con của vua Minh Mạng thì hậu thế phải công nhận ông thuộc vào loại có khả năng tính dục tuyệt luân. Tính theo mỗi lần giao cấu chỉ bắn tinh khí ra khoảng 2 phân khối rưỡi đến 3 là cùng sau nhiều ngày kiêng giao cấu, mà muốn làm thụ thai, mỗi phân khối tinh khối phải chứa 100 triệu tinh trùng và số tinh trùng quái dị phải dưới 20 %.  Khối lượng và sự đậm đặc của tinh khí thường giảm xuống mau chóng sau nhiều lần giao cấu liên tục. Như vậy trong một đêm 5 lần 6 lượt tính giao  thường không phải sinh con mà sinh ra …. bắn súng nước hay bắn khói! Theo sử sách, hằng đêm, vua thức khuya để coi chương sớ từ  các phiên trấn gửi về đến canh ba ( 11 giờ khuya) mới đi ngủ. Hoạt động chăn gối về đêm hăng như thế mà ban ngày vẫn thiết triều, cưỡi ngựa không biết mệt chứng tỏ Minh Mạng là một người có một “thể chất tiên thiên “ bẩm sinh cường tráng. Những toa thuốc mà vua dùng chỉ là trợ lực cho đường sinh lý chứ không phải là chủ trị quyết định. Xem trường hợp vua Tự Đức (1847- 1883) thể chất tiên thiên bất túc và lúc mới lớn bị đậu mùa, dù là vua có nhiều vợ và được các ngự y chữa trị vẫn không có con.

            Nhìn vào thành phần những món thuốc trong hai toa Minh Mạng thang nói trên, tôi thấy toàn là những vị bổ dược  mà tiệm thuốc bắc nào cũng có và hiệu lực của chúng theo y lý được coi là tư âm bổ dương, tăng cường tinh khí, nâng đỡ thể trạng  chứ không phải là những thức khích hứng nhất thời làm cương cử ngọc hành hay những vật liệu chế từng những tạng phủ hay bộ phận của những thú vật nổi tiếng mạnh về sinh lý. Thành ra Minh Mạng thang là một loại bổ dược chống mệt mỏi tổng quát, chứ không giống như những viên thuốc hứng dục ( aphrodisiac) như viên Okasa dạo nào của Pháp chứa Testostérone và Yohimbine, Cantharidine hay những viên Viagra hiện nay chỉ có tác dụng cục bộ làm cương cử ngọc hành.

            Nhiều  y sĩ cho rằng sự mệt mỏi thường là nguyên nhân làm giảm hứng thú khi ân ái. Vua Minh Mạng vốn là một người có thực lực tính dục quán chúng do bẩm sinh nên vấn đề dùng thuốc bổ là một sự trợ lực. Nếu phàm nhân tục tử vốn liếng chẳng bao nhiêu không biết tự lượng sức mình, mỏi gối chồn chân mà cứ dùng thuốc khích hứng để tiếp tục trèo thì quả là tai hại!

           

Nhận định về công hiệu của Minh Mạng thang.

            Vấn đề này cần một sự khảo sát và phân tích thâm cứu  dựa trên những dữ kiện khoa học  mà hiện nay chưa có. Tôi nghĩ rằng  một  ý kiến có thẩm quyền nhất là ý kiến của bác sĩ Nhật Akira Ishihara.  Ông đã cọng tác với Howard S. Levy là đồng tác giả cuốn The Tao of Sex.  Cuốn sách này rất hay vì dựa vào  nhiều tài liệu hiếm quí về tính dục học cũng như  y dược của Trung Hoa và Nhật bản. Y dược Á Đông theo nguyên lý Âm Dương Ngũ hành và được chế biến từ những nguyên liệu từ thiên nhiên mà hiện nay chưa có một sự phân chất thí nghiệm qui mô. Dược liệu Trung Y qua hơn 5 ngàn năm lịch sử từng chứng tỏ công hiệu trên nhiều phương diện.  Ví dụ như Nhung gạt hươu non chứa nhiều kích thích tố ,  dùng trích tinh để  thí nghiệm trên chuột thì thấy chuột tăng cường về sinh lý rõ ràng. Nhục thung dung là một loại nấm chứa nhiều Manganese thường có trong nhiều thuốc khích dục. Thành ra không phải y dược Á đông không có hiệu nghiệm, nhưng hiệu nghiệm này còn rất  ẩn áo hầu như có tính chất huyền thoại, phải theo kinh nghiệm lâu đời (empirical) của cổ nhân mà dùng lâu ngày  mới thấy. Một yếu tố đáng kể là thể tạng của từng bệnh nhân đã đáp ứng ra sao với sự trị liệu nên thuốc dùng cho người này thì tốt mà dùng cho kẻ khác thì không.  Vấn đề tâm lý của người dùng thuốc( linh tại ngã, bất linh tại ngã) cũng  là một yếu tố quyết định.

            Tôi tự xét, không học  gì về Đông Y mà chỉ là con mọt sách, ghi chép lượm lặt để viết lách, nên kính mong sự chỉ giáo của các bậc cao minh. Tôi còn nhớ trước 1975 có đọc quyển Vạn thị Phụ Nhân khoa do ông Nguyễn văn Tỷ chủ nhà thuốc Hồi Xuân đường Nguyễn thiện Thuật, Bàn cờ Sài gòn. Trong sách có một đoạn bàn về các toa thuốc bổ tính dục và bí quyết sinh quí tử mà tôi viết lại theo trí nhớ:

            Đàn ông muốn sanh quí tử phải đạt đủ ba điều kiện trên ba tiêu chuẩn gọi là Tam chí ( Can chí, Tâm chí, Thận chí).

Can tức là gan. Can chủ về mộc cân tức là gân. Gân khỏe ( Can chí) thì gân mới đủ sức cương cử mà hành sự;

Tâm tức là tim, chủ về huyết hỏa hay năng lượng. Tim tốt ( Tâm chí) thì trí não quân bình, năng lực phương cương, sức lực bề dai, tinh trùng mới đủ sức bơi ngược giòng tử cung để thụ thai:

Thận tức là cơ quan tính dục gồm dịch hoàn và các hạch nội tiết nang thượng thận, chủ về thủy, tức là tinh khí. Thận khỏe ( Thận chí) thì tinh khí đặc, chứa nhiều tinh trùng nên dễ thụ thai.

 

Suy diễn như trên, ta thấy sự tính giao lý tưởng là một độ cương dương vật đầy đủ, một trí óc quân bình, một nguồn sản xuất tinh khí dồi dào về phẩm và lượng. Như thế, một người thận yếu, tinh khí loãng, cợ thể bạc nhược, gân thịt bèo nhèo mà dùng thuốc khích hứng chẳng khác nào quất roi thúc con ngựa còm ròm tiến bước trên con đường xa gập ghềnh. 

Một toa thuốc bổ dương hoàn toàn không phải là một toa thuốc chỉ bổ thận khích dục mà theo biện chứng của Đông Y phải là nhắm vào chủ đích bổ dưỡng toàn thân, bằng cách  bồi bổ ba nội tạng Can, Tâm, Thận. Tôi nghĩ đây là một minh chứng về quan niệm khác nhau giữa Tây Y và Đông Y:

*Tây Y chủ trương đánh thẳng và mau vào ngọn nên hữu hiệu vào những trường hợp cấp tính;

 *còn  Đông Y đánh bền và lâu vào gốc bệnh ly, nên thích hợp cho các chứng kinh niên mạn tính.

 

Nhìn chung, dùng rượu thuốc là một tập quán, một đặc thù văn hóa của dân Việt ta đã chịu ảnh hưởng của Trung Hoa qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, sống trong thời hiện đại, người ta phải có một thái độ suy luận thận trọng trên thực tế khi phải dùng thuốc, ngay cả khi dùng thuốc bổ không phải thuốc bổ nào cũng tốt cả như „ one size fits all“ như cái tên khoa trương „ ngũ giao“, „ lục giao“… Một vị thuốc nào cũng vậy, bên cạnh công năng trị liệu, còn có thể có nhiều “phó tác dụng“. Rượu làm khí huyết lưu thông (Tửu năng dẫn huyết)  nhưng đối với những người có chứng huyết áp cao và chứng thống phong ( gout) thì không nên dùng. Tóm lại, rượu thuốc vẫn là rượu bổ nhưng nên dùng thận trọng.

 

BS Lê Văn Lân 

Báo cáo của Cao Biền về Long mạch của Việt Nam

Báo cáo của Cao Biền về Long mạch của Việt Nam

Cao Biền được vua Đường Trung Tông phong làm An Nam Tiết Độ Sứ, sang đô hộ nước ta. Cao Biền là 1 nhân vật rất giỏi về khoa địa lý nên trước khi đi sang nước ta nhậm chức, vua Đường Trung Tông đòi vào triều ủy thác sứ mệnh cho Cao Biền phải tìm các nơi thủy tú sơn kỳ trên đất nước ta, nơi nào có Long Mạch lớn, có huyệt kết tốt thì phải yểm phá, và lập bản tấu thư về cho vua Đường Trung Tông biết. Sau khi sang nước ta, Cao Biền vận dụng hết khả năng và thời gian đi khắp các nơi để tầm long điểm huyệt. Chính Cao Biền cũng không ngờ trên 1 đất nước nhỏ bé như nước ta lại có nhiều Long Mạch lưu tụ và khí thế sông núi ưu tú đến như vậy. Nên Cao Biền không viết tấu thư mà viết hẳn 1 cuốn sách tựa đề là “Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự” gởi về tấu trình. Mặt khác Cao Biền lại tìm cách trấn yểm và phá hủy những Long Mạch lớn, phát vương tướng. Xin trích 1 số đoạn trong sách này cho các quý vị tham khảo:” Giao Châu Đô hộ Sứ, thần Cao Biền cẩn tấu vi bản châu địa mạch thế hình thế sự, thần hạnh phát dư sinh thao tỵ hà những, thượng tự thâm sơn, hạ hạ chi đại hải, ngưỡng quan phủ sát, phát tận chân cơ, ký tự thiên hữu, cảm bất khánh kiệt sở kiến văn, thượng tự tự đế vương, vương công, công hầu, vương phi, thứ thần đồng, tú tài, vị chi thị phủ, phục khất phủ lãm giảo quan chi khí, kiến văn cụ lục.

HÀ  ĐÔNG

THANH OAI:

_ Đệ nhất:   THANH OAI phong
Ấp trung Thanh Uy, hình thế tối kỳ
Thủy lưu tứ vượng, án khởi tam qui
Mạch tòng hữu kết, khí định tả y
Thần đồng tiền lập, quỷ xứ hậu tỳ
Khôi khoa tảo chiếm, phúc lộc vĩnh tuy
Tu phong mạch tận, thừa tự vô nhi.

_ Đệ nhị   :   CAO XÁ phong
Thanh Oai Cao Xá, chân vi quý long
Thủy khuê tùy mạch, bình dương lai tung
Hoa khai hữu hổ, tinh hiện tả long
Sơn thủy trù mật, khí thế sung giong
Hà tu hợp hải, ngưu giác loan cung
Chủ khách hoàn mỹ, tả hữu vô tòng
Hoa tâm khả hạ, thế xuất anh hùng
Văn khôi hoa giáp, võ tổng binh nhung
Phú quý thọ khảo, kiêm hữu kỳ công.
……..”

=>
Giao Châu Đô hộ Sứ, thần Cao Biền kính cẩn tâu: Bản châu địa thế như vầy, thần nguyện đem hết kiếp sống thừa, từ tận núi cao ra đến biển cả khảo nghiệm để biết các cuộc đất phát lớn từ vương tôn công hầu, đến thần đồng, tú tài, khoa đệ, giàu sang phú quý mọi thứ… làm bản tấu ca dâng lên tường tận

HÀ  ĐÔNG

THANH OAI :

1/. Cuộc đất Thanh Oai:
Trong ấp Thanh Oai, hình thế rất lạ
Thủy vượng 4 phương, án phát tam qui
mạch kết bên hữu, khí dựng phía tả
Thần đồng đứng trước, quý sứ nối sau
Bảng vàng sớm chiếm, phúc lộc dồi dào
Nên phòng mạch tận, không con nối dòng.

2/. Cuộc đất Cao Xá  :
Thanh Oai Cao Xá, thật có quý địa
Nước khe theo mạch, về nơi đất bằng
Hoa nở bên Bạch Hổ, sao hiện bên Thanh Long
Sơn thủy dồi dào, khí thế sung mãn
Cần gì hợp biểu, ngưu giác loan cung
Chủ khách đều tốt, tả hữu 1 lòng
Lòng hoa rộng mở, thế phát anh hùng
Văn chiếm đầu bảng, võ chiếm nguyên nhung
Sống lâu phú quý, lập nhiều kỳ công.
…..”

Theo quyển “Tấu thư địa lý kiểu tự” Cao Biền ghi tất cả là  632 huyệt chính, và 1517 huyệt bàng trên khắp các tỉnh như:
_ Hà Đông    :   81 chính  –   246 bàng

_ Sơn Tây     :   36 chính  –   85 bàng

_ Vĩnh yên
Phú Yên            65              155
Phú Thọ

_ Hải Dương
Hưng Yên         183              483
Kiến An

_ Gia Lâm            134              223
Bắc Ninh
Đáp Cầu
Bắc Giang
Lạng Sơn

_ Hà Nam
Nam Định          133              325
thái Bình
Ninh Bình

Theo thống kê trên, cũng đủ thấy công phu tầm long điểm huyệt và trấn yểm của Cao Biền đến bực nào rồi.
Các truyền thuyết về Cao Biền còn lưu lại rất nhiều trong dân gian VN ta.  Như ở Phú Yên, tương truyền có mả Cao Biền ở đó, đấy là 1 độn cát nơi chân núi dưới biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được vì 4 mùa gió cát vun lên. Dân trong vùng có câu phong dao:

Ngó lên hòn núi cả thấy mả Cao Biền
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.

Theo truyền thuyết thì từ thuở xa xưa, Cao Biền đã vun biểu tượng mả để trấn yểm dân VN. Vì thuật địa lý giỏi nên ông ta đã tìm 1 nơi 4 mùa cát vun để ngôi mả đó không bị mất đi.

Trong quyển “Địa dư bình Định” của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng có đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường QL số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là 1 cái thẻ thời xưa  Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ, nhưng nhổ không lên”.
Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có 1 cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có 1 hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dùng phép trấn yểm thuở xưa.

PHÁT LỘ TRẤN YỂM Ở SÔNG TÔ LỊCH

PHÁT LỘ TRẤN YỂM Ở SÔNG TÔ LỊCH (HÀ NỘI)

Ngày 21/9/2002, Báo Kinh Tế và Xã Hội đã đăng một bài về sự phát hiện trên sông Tô lịch, phía cửa Tây của La Thành, một hiện tượng chấn yểm của người xưa.

Hiện tượng này đã gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 – Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão.

Tóm lược sự việc như sau: Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC, trong khi nạo vét sông Tô Lịch, thuộc địa phận làng An Phú – Phường Nghĩa Đô – Quận Cầu giấy – HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng.

Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây (là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP. Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít.
Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12, là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.

Ngày 9/10/2001, những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thich, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để chấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch. Theo một số người nói lại (tôi không có điều kiện kiểm tra). Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết.

Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.

Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau: “Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc.

Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng. (Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam – Người viết). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết: Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.

Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì?. Theo thiển ý của người viết: Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.

Người viết xin được chứng minh như sau: Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý – Trần. Nếu theo Truyền thuyết “Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại” hay truyền thuyết “sự tích Ông Dầu bà Dầu”, tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại, đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như: Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808), Sư La chân Nhân (852 -936), Sư Vạn Hạnh..

Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.

Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.

Theo Việt sử lược: Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng: Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .

Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm: 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.

Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là “Truyền thuyết Thành Cổ Loa” Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong”.

Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km).

Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi: Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch?.

Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng: Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU… Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nướ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa – Đông Anh – HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .

Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này: Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng… chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại: sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch.

Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho, Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền.

Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng: Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm.

Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật: Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt… để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng: THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng: Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm.

Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau:

1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm. Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm.

2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa – Đông Anh – HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp.

3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.

Đến đây,ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi:

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào?

2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên.

3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la?

4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt?.

Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai.

Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau:

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?.

Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu: Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng: Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy, người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước (nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống.

Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng: Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le… Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP. HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền (vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại (mặc dù chỉ là con mương nhỏ). Theo người viết, nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định: Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng – Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau.

Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau: Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng: Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật “Đồng thanh tương ứng – Đồng Khí tương cầu”, hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu.

Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là: Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP. HÀ NỘI?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc.

2. Trả lời cho câu hỏi: Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên?.

Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên: Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng: Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại.

Như vậy, ta có thể kết luận rằng: Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc… Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP. HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng – Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ… Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa…

Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước.

Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3: Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung. Số phận của Long mạch sẽ như thế nào? Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó. Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý, bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử. Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta.
Trước hết, ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận. Hiện nay, tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy. Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện (Trụ đồng Mã viện); các hiện tượng trấn yểm của Cao biền; các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà, các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc, cây ếm ở núi Nước)…
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm, ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó. Từ xưa, việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý, không được tiết lộ ra ngoài, sợ lộ Thiên cơ. Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí, ma thuật, không có tài liệu nào được truyền ra. Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một, ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này. Mặt khác, Thuyết Âm Dương, Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ, Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô, nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước, tìm kiếm. Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp. Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương, Ngũ hành. Lý thuyết của Đông Y về Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời, cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh, có thời điểm khoảng 5000 năm. Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình.
HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC.
1/HUYỆT: Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ. Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ. Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh, Mạch, Lạc nằm ở những nơi cố định. Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt. Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài, trong toàn bộ cơ thể con người. Trong cơ thể có một mạch Nhâm, một mạch Đốc, 12 đường Kinh chính, cộng thành 14 Huyệt Kinh. có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt. Hệ thống Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc tiếp nhận Thiên khí, Địa khí, Thời khí, có tính chất Âm Dương Ngũ hành. Nhờ hệ thống trên, ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận. Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh.
2/Kinh: Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia. Các đường đó đi lắt léo, chồng chất qua rất nhiều chỗ; liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương, Ngũ hành, liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống, tinh thần con người, vì vậy mà gọi là Kinh.
3/Mạch: Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra. Nó đi khắp nơi, phân chia ra nhiều chỗ cần thiết, đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc.
4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt, nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt, chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chử An lạc?
Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại.
*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh, Mạch chính, quan hệ với Tạng phủ, chuyển dần sang các chi nhánh, Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương. Nội Kinh liên quan đến các tương quan, phản xạ, phát sinh Ngoại giao cảm, giữa Linh hồn, Vía, Phách và thể xác.
* Ngoại Kinh: Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính, khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp. Ví dụ cụ thể như: có người đã bị chết lâm sàng, tiêm, chích thuốc theo Tây Y không được, nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm, day, châm, cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được. Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết, trở về nhập vào cơ thể. Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể. Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén, rất công hiệu, có thể cứu mệnh con người, trong nhiều trường hợp nguy cấp. Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này, song họ vẫn cho đó là Thần bí.
Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm, Đốc; 12 đường Kinh chính, 15 đường Mạch Lạc, và vô số Huyệt.
Xin nói thêm về Huyệt: Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm. Có các loại Huyệt là Du huyệt, Mộ huyệt, Nguyên huyệt, Lạc huyệt, Khích huyệt…
Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật. Theo người viết được biết: Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người. Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế, tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt, các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh, Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người. Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc, gắn kết lục phủ, ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn, mạnh thì dẫn đến tử vong, nhẹ thì dẫn đến tàn phế, tật nguyền, rất kho chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa.

Theo nguyên lý “Con người là tiểu Vũ trụ “thì Âm Dương, Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt. Các đường Kinh thứ nhất: Can -Đởm, Tâm -Tiểu trường, Tỳ -Vị, Phế -Đại trường, Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành. Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu. Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính. Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình.
Mặt khác Kinh Tam tiêu được xem là Cha của các đường Kinh Dương, còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm.
Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm.
Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa. Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu.
Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh: Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với Bán cầu não Phải), nhánh phải thuộc Âm (đối ứng với Bán cầu não trái).
Từ đó các Huyệt được chia ra: Huyệt phía trái thuộc Dương, Huyệt phía Phải thuộc Âm.
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long, mạch như sau:
Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời, Đất, cả khi sống và cả sau khi chết(Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này).
1/Về Thiên: Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng) trên các đỉnh núi cao. Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người. Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian, với con người khác nhau. Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời, được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này). Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu, Thổ tú, Thủy diệu, Thái bạch, Thái dương, Vân hớn, Kế đô, Thái âm, Mộc đức và Tam kheo, Ngũ hộ, Thiên tinh, Toán tận, Thiên la, Địa võng, Diêm vương, Huỳnh tuyền)ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người. Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất.
Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất.
2/Về Địa: Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long)chảy theo các mạch nước, tụ lại, và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng, Dương giáng). Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG: Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG. ĐÂY MớI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG). Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí.
3/Về Nhân: Có thể xác định được Âm phần, Dương phần, Họa, Phúc, Mệnh, Thân của từng cong người.
Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ.
Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau: Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình, tới dãy Tam đảo, dọc theo sông Tô lịch ngày xưa, đi tiếp tới Cổ loa, kéo dài đến sông Đuống, sông Thái bình, ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long. Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường. Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ. Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương. Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương. Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương.
Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau: Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu, Sơn la, Hòa bình, đi tới dẵy núi Ba vì, qua cầu Hàm Rồng, theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển. Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Bạch hổ thuộc Âm, do vậy Long mạch này có hành khí Âm. Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm.

Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều. Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện. Theo các cổ thư chữ Hán, cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây. Đây là độ số của Lạc thư. Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc, theo đúng độ số của phương Tây. Tuy nhiên, theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy. Theo người viết, trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác. Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ. Theo chiều từ phương Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông nam,… tới Tây, tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau: 1-8-3-2-7-4-9-6.
Ta vẩn biết rằng: 1 -là hành Dương Thủy.
6 -Là hành Âm Thủy.
8 -Là hành Âm Mộc.
3 -là hành Dương Mộc.
2 -là hành âm Hỏa.
7 -là hành Dương Hỏa.
5 – là hành Dương Thổ.
10 -là hành Âm Thổ.
4 -là hành Âm Kim.
9 -là hành Dương Kim.


Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau: Thủy (6-1)sinh Mộc (8-3)sinh Hỏa (2-7)sinh Thổ (10-5)sinh Kim (4-9) và lại trở về hành Thủy. Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay. Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này, thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử.
Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch, sau khi Cao biền Trấn, yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại, kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này, dòng sông Tô, trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu, nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng. Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại. Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI, theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng. Như vậy hiện nay, dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa). Nhánh Thanh long thuộc Dương khí, đã bị ngăn, bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó. Ngược lại, nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện, ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa, Nghệ an có một con rồng (Long mạch)nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm. Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn, nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ. Theo nhận xét của người viết, kể từ đó về sau này, Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ. Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng: Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền, các vị Vua, tướng tài giỏi, các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra. Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử.
Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này, người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân, tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước. Các câu hỏi đó là: Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên, Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung? ??Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không? Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo? Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không?
Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này. Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở, thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật, là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI.
Trong bài viết, tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an, Ẩn sĩ Lý Thiên Hương -Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ.

Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này. Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó. Theo nhận xét của riêng người viết, khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9. Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm, Cao biền cũng biết rất rõ điều đó, chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây. Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay, phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7. Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo. Theo người viết được biết, tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa, các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái. Như vậy theo người viết, phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác. Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà, Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ. Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch, theo thiển ý của người viết, nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành. Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt, hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa. Theo những tin tức gần đây nhất, sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên, cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra. Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa. Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm), luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi, cũng không loại trừ đã có sự trấn, yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt. Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh. Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không):Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở, vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ. Từ rất lâu đời, các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu, nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.
Một vấn đề quan trọng nữa được đặt ra cho các nhà Phong thủy là công trình Thủy điện Sơn la -Khu vực của đầu nhánh Thanh long. Sẽ như thế nào khi thực hiện xây dựng công trình Thủy điện này? Rất mong sự đóng góp của Quí vị.

Cảm ơn TG dienbatn.

Lý giải của chiase:

http://chiase.wordpress.com/2007/05/02/th%e1%bb%ad-ly-gi%

welcom!

my name is vuna

Cam kết WTO

Nội dung cam kết gia nhập wto về: dịch vụ bưu chính viễn thông, hàng hóa và dịch vụ Công nghệ thông tin

Khái quát
Việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông (VT), dịch vụ chuyển phát nhanh (CPN) và dịch vụ máy tính (IT) phù hợp với xu thế hội nhập chung của đất nước, bên cạnh mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho phát triển ngành nói riêng, cũng mang lại nhiều rủi ro và thách thức. Do tiềm lực vốn, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, nguy cơ các doanh nghiệp Việt Nam bị thua thiệt và bị mất các mảng thị trường tiềm năng là không nhỏ. Lĩnh vực dịch vụ viễn thông (VT) và chuyển phát nhanh (CPN) là một trong những lĩnh vực chịu nhiều sức ép mở cửa nhất trong đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Vì vậy, các cam kết gia nhập WTO đã được Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ cân nhắc rất thận trọng. Các nhân nhượng chỉ được đưa ra vào phút chót của đàm phán và đặt trong gói cam kết tổng thể kết thúc đàm phán song phương. Tuy nhiên vì là mối ưu tiên cao của nhiều thành viên WTO, Việt nam cũng đã tiên liệu một số nhân nhượng phù hợp.
Bên cạnh đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ VT, CPN Việt nam cũng đã phải đàm phán và cam kết thực hiện các luật lệ, quy tắc thương mại chung của WTO. Những cam kết này sẽ tác động đến tổ chức, cơ chế, môi trường hoạt động chung của Cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.

I. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông
Thị trường dịch vụ Viễn thông đã phát triển khá năng động trong thời gian qua với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhiều doanh nghiệp viễn thông mới đã tham gia đầy đủ thị trường dịch vụ Viễn thông và đang nhanh chóng khẳng định chỗ đứng trên thị trường. Tốc độ tăng trưởng cao được duy trì liên tục qua nhiều năm. Mạng lưới được mở rộng nhanh chóng và mức độ hiện đại hoá theo kịp trình độ thế giới. Các doanh nghiệp cũng ngày càng quen hơn với văn hoá cạnh tranh và ngày càng chú trọng đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh để nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thực tế, giá cước dịch vụ liên tục giảm, các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia thị trường dịch vụ viễn thông với trên 2 tỷ USD dưới hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC từ rất sớm. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (TBA) có hiệu lực năm 2001 đã đưa ra lộ trình cho phép các nhà đầu tư Mỹ tham gia thị trường dịch vụ Viễn thông theo hình thức liên doanh từ năm 2001. Mức cam kết mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là tương đương mức cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc. Hiệp định tiếp cận thị trường Việt Nam-EU có hiệu lực từ đầu năm 2005 cũng đã cho phép các nhà đầu tư EU tham gia thị trường dịch vụ viễn thông như các nhà đầu tư Mỹ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hồ sơ xin thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ viễn thông nào.
Môi trường pháp lý chuyên ngành về viễn thông và Internet đã tương đối hoàn chỉnh với Pháp lệnh BCVT và các Nghị định hướng dẫn. Các văn bản này về cơ bản đã phù hợp với những nguyên tắc và nghĩa vụ cơ bản chung của một nước thành viên WTO. Quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông hiện tuân theo các quy định chung của pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Trong đàm phán gia nhập WTO dịch vụ viễn thông đã chịu sức ép mở cửa rất lớn, đặc biệt từ phía các thành viên chủ chốt của WTO như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Dựa trên triển vọng kết quả vòng đàm phán Doha và mức cam kết “quá cởi mở” của các nước mới gia nhập WTO như Căm-pu-chia, Jordani, ả-rập Xê-út,… các nước đã yêu cầu Việt Nam cam kết lộ trình xoá bỏ mọi hạn chế về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Mức cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được các nước coi chỉ là mức khởi điểm để đàm phán.

1. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
– Hiện trạng cam kết quốc tế: Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA VN-HK) hiện chỉ cho phép hợp đồng hợp tác kinh doanh (viết tắt BCC; nước ngoài góp vốn, chia lời, không tham gia điều hành) và liên doanh (JV) 49% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản; BCC và JV 50% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng. BTA VN-HK chưa cho phép nước ngoài nắm đa số vốn và thành lập công ty 100%. Những hạn chế này cho phép Việt Nam nắm đa số vốn và quyền kiểm soát, qua đó đảm bảo chủ quyền kinh tế, đảm bảo lợi ích an ninh và quốc phòng. Những hạn chế này cũng phù hợp với chủ trương mở cửa từng bước và thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam.
– Yêu cầu của các đối tác: Mở cửa thị trường cao hơn, cho phép nước ngoài nắm đa số vốn và đưa ra lộ trình cho phép công ty 100% vốn nước ngoài. Nếu Việt Nam buộc phải chấp nhận, cho dù chỉ một phần những yêu sách này của Mỹ thì chủ quyền, lợi ích an ninh và kinh tế của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.

– Cam kết của Việt Nam:
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng: ta không có nhân nhượng thêm so với mức cam kết trong BTA VN-HK. Trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông cơ bản, bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.

+ Cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng: trong 03 năm đầu sau khi gia nhập WTO, bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp tối đa là 51% vốn pháp định của liên doanh, 03 năm sau khi gia nhập bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn đối tác khi thành lập liên doanh và được phép nâng mức vốn góp lên mức 65%.
Riêng đối với dịch vụ mạng riêng ảo (VPN) mà Mỹ có mối quan tâm đặc biệt, được thiết lập trên hạ tầng mạng do Việt Nam kiểm soát, Việt Nam có nhân nhượng hơn một chút: phía nước ngoài được phép tham gia vốn tối đa ở mức 70% vốn pháp định.

2. Chọn lựa đối tác liên doanh:
– Hiện trạng: Việt Nam hiện chỉ cho phép nước ngoài liên doanh với các doanh nghiệp viễn thông đã được cấp phép. Quy định như vậy nhằm tập trung cơ hội hợp tác cho các doanh nghiệp viễn thông hiện có, đảm bảo sự hợp tác bình đẳng giữa các bên trong liên doanh. Hạn chế này cũng cho phép hạn chế số lượng các JV có thể thành lập trong thời gian đầu để giảm bớt áp lực cạnh tranh, kiểm soát được thị trường.
– Yêu cầu của đối tác: Tự do lựa chọn đối tác liên doanh là một trong những yêu sách của một số đối tác đàm phán lớn. Nếu buộc phải chấp nhận điều này thì sự cạnh tranh sẽ đến không điều kiện và khốc liệt hơn do việc thành lập các liên doanh viễn thông hình thức này còn thực chất là nhanh hay chậm sẽ trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Thị trường sẽ bị tư nhân hoá.

– Cam kết gia nhập WTO:
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng: ta không có nhân nhượng thêm so với mức cam kết trong BTA VN-HK. Bên nước ngoài vẫn phải liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép.

+ Cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản không có hạ tầng mạng: 03 năm sau khi gia nhập WTO bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn đối tác khi thành lập liên doanh.

Nhân nhượng đối với dịch vụ mạng riêng ảo và dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng ta cho phép nước ngoài tự do lựa chọn đối tác liên doanh ngay khi gia nhập.

3. Cung cấp dịch vụ qua biên giới:
– Hiện trạng: Việt Nam quy định nước ngoài phải có thoả thuận thương mại với nhà khai thác Việt Nam được cấp phép làm dịch vụ viễn thông quốc tế. Ngoài việc cho phép kiểm soát an ninh thông tin một cách khả thi, hạn chế này còn cho phép tạo ra thị trường thông tin vệ tinh cho các doanh nghiệp Việt Nam và nâng cao tính thương mại của dự án phóng vệ tinh Việt Nam VINASAT. Việc kiểm soát các cổng thông tin quốc tế và dịch vụ thuê kênh quốc tế cũng là những điều kiện cần thiết cho việc đảm bảo an ninh thông tin.

– Yêu cầu đàm phán: thị trường cáp quang biển quốc tế và dịch vụ băng rộng qua vệ tinh đang là mối quan tâm ưu tiên của một số đối tác đàm phán lớn và họ yêu cầu được cung cấp dịch vụ thông tin vệ tinh với các trạm thu nhỏ VSAT cho mọi đối tượng, được sở hữu dung lượng cáp quang 2 chiều đến trạm cập bờ của Việt Nam và bán dung lượng cáp quang biển cho mọi đối tượng.

– Cam kết gia nhập WTO: Việt Nam cam kết 03 năm sau khi gia nhập mở rộng loại đối tượng, chủ yếu là các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam, có thể được cấp phép sử dụng trực tiếp dịch vụ vệ tinh của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Ta cũng cam kết lộ trình cho phép bên nước ngoài, được kết nối dung lượng cáp quang biển (dung lượng 2 chiều) trên các tuyến cáp cong-xooc xiom mà Việt Nam là thành viên với các trạm cập bờ của Việt Nam và bán xỉ dung lượng truyền dẫn này cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế được cấp phép tại Việt Nam. Bốn năm sau khi gia nhập bên nước ngoài được phép bán dung lượng nêu trên cho các nhà cung cấp dịch vụ ảo VPN và dịch vụ kết nối Internet (IXP) quốc tế được cấp phép.
Tóm lại có một số dịch vụ mà các thành viên WTO đặc biệt quan tâm và Việt Nam buộc phải có một số nhân nhượng phù hợp là dịch vụ vệ tinh cố định (VSAT), dịch vụ mạng riêng ảo (VPN) và các dịch vụ gia tăng giá trị VAS được bán kèm, bao gồm cả dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ thuê kênh quốc tế, bán lại dịch vụ viễn thông nói chung, các dịch vụ Internet (đặc biệt kết nối IXP).
Như vậy, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch phát triển để chiếm lĩnh những mảng thị trường này trước, đảm bảo giữ vững thị trường và thế hợp tác chủ động sau này.

4. Cam kết về chuyển đổi hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC
Nước ngoài có thể ký mới BCC hiện có hoặc chuyển đổi sang hình thức đầu tư khác phù hợp cam kết với điều kiện không kém thuận lợi hơn.
Cam kết này mang tính nguyên tắc và không thay thế các điều khoản của một BCC cụ thể. Vì vậy, nếu muốn thay đổi các bên của BCC phải đàm phán đề án hợp doanh mới và trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

5. Phạm vi dịch vụ
Ngoài các dịch vụ viễn thông có tính truyền thống, do sự hội tụ của các dịch vụ nghe nhìn Việt Nam cam kết thêm dịch vụ truyền dẫn tín hiệu video các chương trình truyền hình và phát thanh trong phần dịch vụ viễn thông cơ bản. Về bản chất ta cam kết coi dịch vụ truyền dẫn tín hiệu video từ các nhà sản xuất chương trình/nội dung đến các nhà phát hình/phát thanh quảng bá, giữa các nhà phát hình/phát thanh quảng bá với nhau là dịch vụ viễn thông. Dịch vụ này khác với dịch vụ phát quảng bá được định nghĩa như là một chuỗi truyền dẫn liên tục các tín hiệu chương trình phát thanh, truyền hình đến công chúng rộng rãi.

6. Nhận xét khái quát về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông
Về tổng thể, tương kế tựu kế Việt Nam đã có một số nhân nhượng phù hợp về mở cửa thị trường viễn thông theo yêu cầu của các thành viên WTO trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng và trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ qua biên giới (dịch vụ viễn thông quốc tế) để đổi lấy việc bảo lưu hạn chế “nước ngoài phải liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép và bảo lưu hạn chế “mức vốn góp nước ngoài tối đa là 49% trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản có hạ tầng mạng”. Những nhân nhượng về dịch vụ vệ tinh và dịch vụ cáp quang biển cung cấp qua biên giới chỉ cho phép phía nước ngoài được phép sở hữu toàn phần dung lượng thuộc hệ thống truyền dẫn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam vẫn bảo lưu được quyền kiểm soát Nhà nước đối với hạ tầng mạng viễn thông trên lãnh thổ Việt Nam và qua đó giữ được quyền kiểm soát nhất định đối với thị trường dịch vụ và an ninh thông tin. Việt Nam chưa cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Các công ty nước ngoài vẫn phải hợp tác với các công ty trong nước để cung cấp dịch vụ.
Xét chung cả khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng thì cân bằng mặt lợi và mặt hại của việc chấp nhận một số nhân nhượng trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông là một cân bằng động, cân bằng này hoàn toàn phụ thuộc vào các công cụ và năng lực quản lý của nhà nước, phụ thuộc vào tiềm lực, sự năng động và quyết tâm của các doanh nghiệp trong việc đổi mới tổ chức, sản xuất-kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh.
Khả năng kiểm soát thị trường viễn thông sau gia nhập cũng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của Tập đoàn chủ lực Bưu chính Viễn thông VNPT. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tới đây sẽ phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết thị trường viễn thông có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Có các cơ chế chính sách thúc đẩy thích hợp cho các doanh nghiệp viễn thông mới có cơ sở hạ tầng vươn nhanh chiếm lĩnh và mở rộng thị trường để các nhân nhượng gia nhập WTO của ta chỉ là sự cảnh báo mà không tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp.
Khả năng kiểm soát thị trường viễn thông phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm của lãnh đạo các doanh nghiệp viễn thông. Tham gia WTO là tham gia vào cuộc cạnh tranh tầm cỡ quốc tế. Nếu biết hợp tác phát triển, phát huy tốt tinh thần tự lực tự cường, các doanh nghiệp viễn thông vẫn có thể thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển mà vẫn giữ được vai trò kiểm soát, qua đó Nhà nước vẫn duy trì được khả năng điều tiết.
Sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, vai trò quản lý nhà nước chuyên ngành của Bộ BCVT, sự phối hợp tốt của các Bộ liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài trong vấn đề cấp phép cho các dự án đầu tư cũng sẽ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của việc buộc phải tiếp tục cải thiện cam kết quốc tế sau này về dịch vụ viễn thông. Để đảm bảo đứng vững và phát triển được sau khi gia nhập WTO, một số chủ trương phát triển thị trường viễn thông giai đoạn trước mắt cũng rất cần được xem xét là:
– Hợp lý hoá/cơ cấu lại thị trường kinh doanh hạ tầng mạng đường dài trong nước và quốc tế: theo kinh nghiệm quốc tế, so với quy mô thị trường và tiềm lực tài chính trong nước, số lượng doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng hiện tại đã là khá nhiều dễ dẫn tới việc phân tán nguồn lực, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
– Lộ trình thích hợp cổ phần hóa các doanh nghiệp viễn thông quan trọng: nước ngoài rất quan tâm đến việc mua cổ phần các doanh nghiệp viễn thông và các tập đoàn viễn thông lớn nước ngoài trở thành các nhà đầu tư chiến lược. Do Việt Nam đã cam kết bãi bỏ hạn chế 30% cổ phần nước ngoài, trừ lĩnh vực ngân hàng, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp viễn thông cần có tốc độ và giải pháp tương thích để vừa đạt hiệu quả cổ phần cao, vừa không hạn chế dòng đầu tư trực tiếp.
II. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh
Dịch vụ chuyển phát nhanh như một phân ngành dịch vụ độc lập trong phân loại dịch vụ của WTO, đương đẳng/ngang hàng với các phân ngành dịch vụ khác như dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải, phân phối,… tuy mới xuất hiện tại Việt Nam nhưng đang phát triển rất nhanh. Thị trường đã có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Hầu hết các công ty hàng đầu thế giới như DHL, UPS, TNT, Fedex,… đã tham gia thị trường Việt Nam, có công ty đã được phép thành lập liên doanh với đa số vốn và quyền kiểm soát. Các công ty này tập trung khai thác thị trường chuyển phát nhanh quốc tế, phân đoạn thị trường chất lượng cao mà các doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng tham gia. Ngoại trừ VNPT, các công ty 100% vốn Việt Nam đều là các công ty tư nhân nhỏ, hoạt động trên địa bàn hẹp trong nước, loại hình dịch vụ nghèo nàn. Việt Nam chưa cam kết mở cửa dịch vụ này trong BTA.
Cho đến nay, quản lý Nhà nước được thực hiện chủ yếu bằng các văn bản quy phạm pháp luật chung và các văn bản quản lý chuyên ngành như giao thông vận tải, hải quan,… Đầu mối quản lý Nhà nước về dịch vụ chuyển phát mới được giao cho Bộ BCVT từ 11/2004 xuất phát từ yêu cầu đàm phán gia nhập WTO. Hiện nay Bộ BCVT đang căn cứ vào cam kết gia nhập WTO để xúc tiến việc xây dựng Nghị định quản lý chuyên ngành dịch vụ chuyển phát.
Để kết thúc đàm phán gia nhập WTO với các nước, Việt Nam đã cam kết cho phép thành lập liên doanh 51% vốn đầu tư nước ngoài ngay khi gia nhập và cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài 05 năm sau khi gia nhập. Để tạo điều kiện cho Bưu chính Việt Nam phát triển ổn định sau khi tiến hành hạch toán độc lập mà vẫn thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp dịch vụ bưu chính công ích, Việt Nam đã đàm phán bảo lưu được mảng kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh dành riêng, có ý nghĩa thương mại, cho Bưu chính Việt Nam. Đó là kinh doanh chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản, kể cả thông tin dưới dạng không đóng gói dán kín, bao gồm cả thư quảng cáo trực tiếp. Hai tiêu chí xác định phạm vi dành riêng là:
– Khối lượng: dưới 2kg
– Giá cước: thấp hơn 10 lần cước thư thường trong nước cho mức khối lượng đầu tiên đối với chuyển phát trong nước và thấp hơn 9 USD đối với chuyển phát quốc tế.
Như vậy, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh đã chính thức hoá việc mở cửa thị trường cho đầu tư nước ngoài và đưa ra lộ trình phù hợp tiến tới không hạn chế vốn nước ngoài. Các công ty hàng đầu nước ngoài, thực chất chỉ có một vài tập đoàn đa quốc gia, với truyền thống và năng lực kỹ thuật vượt trội sẽ tiếp tục chiếm ưu thế ở thị trường chuyển phát nhanh quốc tế và mảng thị trường chất lượng cao, khách hàng chính là các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các công ty Việt Nam vẫn có cơ hội phát triển ở thị trường chuyển phát trong nước và mảng thị trường chất lượng trung bình, khách hàng đại chúng.
Phù hợp với định hướng xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, Việt Nam cũng đã cam kết không phân biệt đối xử giữa các dịch vụ chuyển phát nhanh và các nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh, kể cả Bưu chính Việt Nam, đối với các loại hình dịch vụ chuyển phát nhanh đã cho phép cạnh tranh. Theo cam kết này Bưu chính VN khi cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh đã mở cho cạnh tranh không được phép sử dụng những ưu đãi, đặc quyền vốn chỉ dành riêng cho cung cấp dịch vụ Bưu chính. Nói cách khác các công ty chuyển phát nhanh thành viên của Tập đoàn VNPT sẽ phải độc lập về mặt tổ chức sản xuất kinh doanh và hạch toán.
Cam kết gia nhập WTO về dịch vụ chuyển phát đòi hỏi Việt Nam tiếp tục hoàn chỉnh môi trường pháp lý và nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Trong một thời gian ngắn sau khi gia nhập cần giải quyết một số vấn đề chuyên ngành cụ thể như sau:
– Phân tách rõ ràng dịch vụ bưu chính độc quyền của Bưu chính Việt Nam và dịch vụ chuyển phát đã mở cửa cho cạnh tranh trong nước và quốc tế và chính thức cam kết trong đàm phán gia nhập WTO;
– Phân biệt rõ ràng dịch vụ chuyển phát với các dịch vụ gần tương tự như dịch vụ giao nhận, dịch vụ vận tải đa phương thức,… để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý;
– Cho phép mọi thành phần kinh tế cung cấp dịch vụ chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản kể cả đóng gói dán kín (trong đó có thư) trong nước và quốc tế;
– Xây dựng điều kiện đầu tư, tiêu chí, thủ tục cấp phép chuyên ngành đối với một số loại hình dịch vụ chuyển phát;
– Quy định phạm vi thị trường chuyển phát dành riêng cho Bưu chính Việt Nam.
Theo cam kết Nghị định quy định điều kiện đầu tư, tiêu chí, thủ tục cấp phép chuyên ngành đối với dịch vụ chuyển phát sẽ phải được ban hành chậm nhất trong vòng một vài tháng sau khi gia nhập.

B-hàng hóa và dịch vụ Công nghệ thông tin (CNTT)

Bên cạnh đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ VT và CPN, Việt Nam cũng đã đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ CNTT. Đặc biệt, Việt Nam đã buộc phải tham gia Hiệp định cắt giảm thuế quan đối với sản phẩm CNTT (ITA), về bản chất Việt Nam cam kết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu về 0%. Đây là những cam kết mà ta thấy rõ nhất tác động thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.

I. Cam kết mở cửa thị trường hàng hoá CNTT
Việt Nam đã cam kết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu về 0% đối với khoảng 300 mặt hàng thuộc danh mục Hiệp định sản phẩm công nghệ thông tin (CNTT) nhiều bên ITA. Mức thuế hiện hành phổ biến đối với sản phẩm CNTT dao động quanh 10%. Lộ trình giảm thuế về 0% đối với đa số các mặt hàng CNTT mang tính phổ cập như máy tính, các thiết bị ngoại vi, linh phụ kiện chính là 5 năm, đối với một số mặt hàng mà ta còn cần bảo hộ để phát triển công nghiệp nội địa như điện thoại, cáp điện thoại là 7 năm.
Thực tế phát triển những năm qua cho thấy công nghiệp sản xuất trang thiết bị CNTT trong nước đã không tận dụng hiệu quả hàng rào thuế quan bảo hộ. Giá và chất lượng sản phẩm CNTT chưa phù hợp lại là rào cản đối với việc nhanh chóng phổ cập ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Vì vậy, lộ trình cắt giảm thuế sản phẩm CNTT đã bám sát nguyên tắc bảo hộ có thời hạn và có chọn lọc để hài hoà được cả hai nhóm lợi ích: sản xuất trong nước và nhanh chóng phổ cập ứng dụng CNTT qua việc phổ cập truy nhập và thiết bị đầu cuối. Mặt khác với chính sách tiếp tục thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, đặc biệt của các tập đoàn CNTT lớn như Intel, Canon,…, vào lĩnh vực sản xuất và lắp ráp trang thiết bị CNTT thì việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ không ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách.

II. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan
Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan có thể tạm hiểu một cách đơn giản là dịch vụ phần mềm và tin học hoá và nằm trong phạm vi dịch vụ CNTT.
Thị trường dịch vụ này đã có nhiều thành phần kinh tế tham gia từ rất sớm và đang phát triển rất nhanh. Cho đến nay quản lý Nhà nước được thực hiện chủ yếu bằng các văn bản quy phạm pháp luật có tính áp dụng chung. Quản lý Nhà nước về mặt chuyên ngành được chú trọng hơn kể từ khi thành lập Bộ BCVT có chức năng quản lý nhà nước về CNTT. Luật CNTT mà Quốc hội mới thông qua và các Nghị định hướng dẫn sắp ban hành sẽ là hệ thống văn bản pháp quy toàn diện đầu tiên về quản lý chuyên ngành CNTT.
Việt Nam đã có cam kết mở cửa thị trường khá mạnh từ năm 2001 với việc ký kết BTA VN-HK, Hiệp định này đã xoá bỏ hầu hết các hạn chế tiếp cận thị trường và cho phép công ty 100% vốn Mỹ hoạt động từ năm 2001. Trong đàm phán gia nhập WTO Việt Nam đã cải thiện thêm môi trường đầu tư trực tiếp:
– Chính thức bãi bỏ hạn chế còn bảo lưu trong BTA VN-HK (trên thực tế ta cũng chưa nội luật hoá và áp dụng hạn chế này), theo đó 02 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO các công ty 100% vốn nước ngoài được quyền cung cấp dịch vụ cho mọi đối tượng, kể cả các tổ chức cá nhân Việt Nam.
– 03 năm sau khi gia nhập Việt Nam cho phép các công ty nước ngoài được thành lập chi nhánh và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người cư trú tại Việt Nam.
– Chính thức hoá việc cho phép nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng được đưa người lao động nước ngoài (chuyên gia, kỹ sư,…) vào Việt Nam thực hiện hợp đồng.
Như vậy, các cam kết gia nhập WTO về dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan không làm thay đổi lớn môi trường đầu tư và hoạt động cung cấp dịch vụ. Do thị trường đã khá mở, tự thân các cam kết gia nhập WTO này khó tạo ra thay đổi lớn trên thị trường hay tạo ra khó khăn thách thức mới đối với các doanh nghiệp trong nước. Chúng cũng không đòi hỏi những điều chỉnh lớn về văn bản quy phạm pháp luật có tính áp dụng chung cũng như văn bản quản lý chuyên ngành. Vấn đề đáng kể nhất là quy định về việc thành lập và hoạt động cung cấp dịch vụ của chi nhánh công ty nước ngoài sẽ được giải quyết chung cùng với một số lĩnh vực dịch vụ khác có cam kết cho phép chi nhánh.
Bên cạnh cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ Việt Nam cũng đã cam kết thực thi Hiệp định về Sở hữu trí tuệ trong thương mại TRIPS. Về bản chất ta đã cam kết thực hiện Hiệp định này trong BTA VN-HK. Tuy nhiên việc thực thi Hiệp định trong thời gian qua còn chưa được chú trọng đúng mức. Ngoài vấn đề bản quyền phần mềm, các doanh nghiệp VT và CNTT cần đặc biệt lưu ý đến bản quyền truyền hình và tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bản quyền tác phẩm phim ảnh, âm nhạc, văn học,…khi kinh doanh dịch vụ gia tăng giá trị trên Internet. Trên bàn đàm phán rất nhiều đối tác quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (mức phạt quá thấp không đủ tác dụng răn đe,..) và tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ là vấn đề nổi cộm sau khi gia nhập. Theo cam kết, Việt Nam cũng đã ban hành quy định nâng lên nhiều lần mức phạt kinh tế.
Một cam kết gia nhập WTO khác có tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp CNTT là xoá bỏ trợ cấp. Theo quy định của WTO (Hiệp định TRIMs-Các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại), Việt Nam đã buộc phải cam kết giảm và tiến tới cắt hẳn trợ cấp cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng (trợ cấp trực tiếp từ ngân sách hoặc gián tiếp thông qua ưu đãi thuế, tín dụng, xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, hỗ trợ về đất đai, hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích sử dụng hàng nội địa, các quy định phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác…). Các doanh nghiệp của ta hiện nay nói chung đều đang được hưởng một phần trợ cấp này, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT do những năm gần đây đã có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích phát triển. Vì vậy các doanh nghiệp CNTT cũng cần ý thức rõ điều này để chủ động có kế hoạch trước khi không còn nhận được trợ cấp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng có phương án, kế hoạch tận dụng các trợ cấp được phép như trợ cấp cho nghiên cứu phát triển, trợ cấp cho giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Nhìn chung có thể nói sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ CNTT là những lĩnh vực được xã hội hóa khá sớm. Các doanh nghiệp đa số đều có quy mô vừa và nhỏ có được lợi thế về sự năng động và khả năng thích ứng cao. Với chiến lược phát triển phù hợp các doanh nghiệp CNTT Việt Nam có thể tự tin bước vào giai đoạn phát triển sau gia nhập WTO.

Kết luận

Trên đây là một số cam kết mở cửa thị trường dịch vụ BCVT và CNTT của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO.
Chủ động hội nhập là quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước và trong quá trình đàm phán ta cũng đã phải xem xét nới lỏng một số các rào cản tiếp cận thị trường để đạt được mục tiêu gia nhập WTO. Về chuẩn bị trong nước, chủ động hội nhập đòi hỏi Tập đoàn và các doanh nghiệp phải mạnh. Cơ quan quản lý phải xây dựng được khuôn khổ pháp lý đầy đủ cũng như năng lực thực thi tốt để thực hiện các mục tiêu phát triển chính trị, kinh tế-xã hội của mình. Việc đẩy mạnh quá trình chuẩn bị cho hội nhập và phát triển thành công sau gia nhập WTO đã được thực hiện thông qua chiến lược hội nhập và phát triển của Ngành giai đoạn 2000-2010, đặc biệt ngay từ đầu năm 2005 với Chỉ thị số 01/CT-BBCVT ngày 04/1/2005, Bộ trưởng Bộ BCVT đã chỉ thị cho các đơn vị trong toàn Ngành:
1. Tiếp tục quán triệt ở tất cả các cấp những cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và thách thức mà những cam kết này tạo ra trong lĩnh vực BCVT và CNTT.
2. Chủ động thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp tục phát triển tốt khi có cạnh tranh nước ngoài và từng bước tiến ra thị trường khu vực và thế giới.
3. Chủ động đề xuất những cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt những lợi thế so sánh của Việt Nam.
4. Nghiên cứu xây dựng các phương án, cơ chế giải quyết kịp thời các tranh chấp thương mại có thể phát sinh.
5. Có kế hoạch phân công cụ thể, hình thành bộ phận chuyên trách về kinh tế quốc tế.
Như vậy, dù Việt Nam có nới lỏng các hạn chế thì nước ngoài cũng chỉ tận dụng được hết cơ hội mở cửa thị trường trên cơ sở phải hợp tác với các doanh nghiệp của Việt Nam mà thôi và có như vậy ngành BCVT và CNTT mới thực hiện thành công chủ trương hội nhập và phát triển bằng nội lực với phương châm biến cơ hội thành tăng trưởng, biến thách thức thành động lực phát triển.
Với tinh thần như vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu phân tích sâu hơn những thuận lợi và khó khăn của mình trong trường hợp phải đối mặt sớm hơn với cạnh tranh quốc tế, từ đó xây dựng và triển khai quyết liệt kế hoạch đổi mới sản xuất kinh doanh để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO.
Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định pháp lý cụ thể và chi tiết, công bằng và minh bạch cho phép thực hiện một cách linh hoạt các cam kết quốc tế, đảm bảo tốt nhất lợi ích quốc gia; xây dựng năng lực thực thi đảm bảo quản lý tốt môi trường BCVT và CNTT có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vừa đảm bảo mục tiêu phát triển đất nước vừa giữ vững chủ quyền và an ninh thông tin quốc gia.

Ban chỉ đạo Ngành về Hội nhập Kinh tế Quốc tế – TLTK Trung tâm Thông tin – Bộ BCVT số tháng 11/2006